Rối loạn giọng nói là gì? Các công bố khoa học về Rối loạn giọng nói

Rối loạn giọng nói, còn được gọi là rối loạn hầu hết là các vấn đề liên quan đến tiếng nói hoặc âm thanh khi nói của một người. Nó có thể là sự thay đổi trong t...

Rối loạn giọng nói, còn được gọi là rối loạn hầu hết là các vấn đề liên quan đến tiếng nói hoặc âm thanh khi nói của một người. Nó có thể là sự thay đổi trong tốc độ, âm lượng, dòng giọng, cấu trúc câu, hoặc khả năng giao tiếp chung. Một số rối loạn giọng nói phổ biến bao gồm thốn kinh, tuyến tiền liệt, ho ra vị, ho chích gián, nói như trẻ em, nói lắp lạnh, nói nhanh hoặc chậm quá mức, không thể nói được, hoặc nhầm lẫn giữa âm thanh/r từng tiếng. Rối loạn giọng nói có thể ảnh hưởng đến giao tiếp hàng ngày và tạo ra trở ngại trong việc hiểu và được người khác hiểu.
Rối loạn giọng nói có thể có nhiều dạng khác nhau, dưới đây là một số phân loại chi tiết:

1. Thốn kinh (Stuttering): Đây là một rối loạn phổ biến, nó gây ra sự ngắt quãng, lặp lại hoặc sự khó khăn khi phát âm một âm / từ. Có thể đi kèm với nhịp điệu hoặc chấm dứt trong lời nói.

2. Tuyến tiền liệt (Cluttering): Đây là một rối loạn nói chậm và không rõ ràng do khả năng tổ chức và lưu thông thông tin không hiệu quả. Người bị tuyến tiền liệt nói nhanh, chen ngang hoặc gắn các âm, từ, câu một cách không rõ ràng.

3. Ho ra vị (Dysarthria): Đây là một rối loạn nói do vấn đề trong việc điều khiển cơ bắp mà người bệnh cần để nói. Nó có thể có sự khó khăn về lực, tốc độ, độ chính xác và cộng hưởng âm thanh, gây ra giọng nói không rõ ràng hoặc khó nghe.

4. Ho chích gián (Clonic Spasmodic Dysphonia): Đây là một rối loạn giọng nói do co thắt không kiểm soát của cơ vokal khi nói. Nó gây ra những âm thanh không khả dụng hoặc có chấm dứt trong giọng nói của người bị ảnh hưởng.

5. Nói như trẻ em (Childhood Apraxia of Speech): Đây là một rối loạn giọng nói phổ biến ở trẻ em, gây ra sự khó khăn trong việc lập kế hoạch và điều khiển các cử chỉ cơ và hơi thở cần thiết để phát âm các từ và câu.

6. Rối loạn phát triển diễn đạt ngôn ngữ (Developmental Language Disorder): Đây là một rối loạn ngôn ngữ ảnh hưởng đến khả năng sử dụng và hiểu ngôn ngữ. Nó có thể ảnh hưởng đến cách một người phát âm và tổ chức câu nói.

Các rối loạn giọng nói có thể gây ra khó khăn trong giao tiếp hàng ngày và tạo ra trở ngại trong việc hiểu và được người khác hiểu. Nếu bạn gặp các dấu hiệu của rối loạn giọng nói, quan trọng để tham khảo một chuyên gia ngôn ngữ học hoặc nhà trị liệu giọng nói để đánh giá và điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rối loạn giọng nói":

THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP RỐI LOẠN GIỌNG NÓI Ở NỮ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng rối loạn giọng nói (RLGN) và hiệu quả can thiệp cải thiện RLGN ở 476 nữ giáo viên tiểu học (GVTH) huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không đối chứng. Kết quả: 87,82% GVTH ở huyện Gia Lâm có tỷ lệ RLGN cao, trong đó RLGN chức năng chiếm 78,71%, các RLGN thực thể chiếm 21,29%. Nghiên cứu can thiệp vệ sinh giọng nói, luyện giọng và điều trị bệnh lý tai mũi họng (TMH) và bệnh trào ngược họng thanh quản (LPR) có hiệu quả tốt đối với RLGN, làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ của RLGN. Can thiệp cũng làm cải thiện các triệu chứng của các bệnh lý kèm theo, cụ thể với LPR trước can thiệp có 46,3%, ở lần khám thứ 2 còn 13,4%. Bệnh lý TMH kèm theo trước can thiệp là 28,7% giáo viên, ở lần khám thứ 2 còn 7.9 %, p<0,05. Kết luận: Tỷ lệ RLGN ở nữ GVTH chiếm tỷ lệ cao, can thiệp bằng luyện giọng và điều trị nội khoa đem lại hiệu quả cao đối với RLGN ở các GVTH.
#rối loạn giọng nói #tai mũi họng #nữ giáo viên tiểu học #huyện Gia Lâm
Những phát hiện nội soi thanh quản đặc trưng ở bệnh nhân Parkinson sau khi được kích thích não sâu nhân dưới đồi và mối liên hệ của nó với rối loạn giọng nói Dịch bởi AI
Journal of Neural Transmission - Tập 122 - Trang 1663-1672 - 2015
Rối loạn giọng nói và tiếng nói là một trong những tác dụng phụ phổ biến nhất ở bệnh nhân Parkinson (PD) được điều trị bằng kích thích não sâu nhân dưới đồi (STN-DBS). Tuy nhiên, sinh lý bệnh của rối loạn giọng nói và chức năng thanh quản sau khi kích thích STN-DBS vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi đã đánh giá 47 bệnh nhân PD (22 bệnh nhân được điều trị bằng STN-DBS hai bên (PD-DBS) và 25 bệnh nhân được điều trị bằng thuốc (PD-Med); tất cả bệnh nhân ở cả hai nhóm đều được ghép nối theo độ tuổi, giới tính, thời gian mắc bệnh cũng như chức năng vận động và nhận thức) bằng các bộ công cụ đánh giá giọng nói khách quan và chủ quan (thang đo GRBAS và Chỉ số Khuyết tật Giọng nói), cùng với nội soi thanh quản. Các kết quả nội soi cho thấy bệnh nhân PD-DBS có tỷ lệ mắc tình trạng đóng thanh quản không hoàn chỉnh cao hơn đáng kể (77 so với 48 %; p = 0.039), tăng cường khít lại của dây thanh giả (73 so với 44 %; p = 0.047), tăng ép trước-sau (50 so với 20 %; p = 0.030) và cử động thanh quản không đối xứng (50 so với 16 %; p = 0.002) so với bệnh nhân PD-Med. Đánh giá tình trạng có và không kích thích cho thấy STN-DBS có thể gây ra hoặc làm nặng thêm tình trạng đóng thanh quản không hoàn chỉnh, tăng cường khít lại của dây thanh giả, ép trước-sau và cử động thanh quản không đối xứng. Đóng thanh quản không hoàn chỉnh và tăng cường khít lại của dây thanh giả có sự tương quan đáng kể với giọng nói thì thào và giọng nói căng thẳng (r = 0.590 và 0.539). Chúng tôi nên điều chỉnh cài đặt DBS ở bệnh nhân theo sự cân nhắc đến chức năng giọng nói và thanh quản cũng như chức năng vận động.
#Rối loạn giọng nói #bệnh Parkinson #kích thích não sâu #chức năng thanh quản #nội soi thanh quản
Một gói tự học điện tử về rối loạn ngôn ngữ và giọng nói cho chương trình đào tạo ngữ âm và thính học tại Đại học Gent Dịch bởi AI
Tijdschrift voor Medisch Onderwijs - Tập 27 - Trang 80-89 - 2008
Giới thiệu: Các nhà ngữ âm phải có khả năng nhận biết các rối loạn về giọng nói và ngôn ngữ khác nhau. Thường thì sinh viên chỉ có thể thực sự học và thực hành kỹ năng này khi tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân trong quá trình thực tập. Phương pháp: Để tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội thực hành kỹ năng này sớm hơn trong chương trình đào tạo, một gói tự học đã được phát triển dựa trên tài liệu nghe nhìn từ bệnh nhân tại Đại học Gent. Gói này là bổ sung cho sách giáo trình ‘Giáo lý đặc biệt của ngữ âm’. Sinh viên có thể làm việc với tài liệu tự học này theo tốc độ riêng của họ. Trong bài viết này, các kết quả của một đánh giá đầu tiên về gói tự học được mô tả. Tổng cộng 47 sinh viên (27 sinh viên ngữ âm và 20 sinh viên thính học) đã được đưa ra bảng câu hỏi. Kết quả: Từ việc phân tích việc sử dụng gói tự học, có thể thấy rằng tài liệu hình ảnh bổ sung có giá trị gia tăng. Điều này đặc biệt liên quan đến các hình minh họa trong chương 7, ‘Rối loạn giao tiếp do thần kinh’. Trước đó đã biết rằng chương này được coi là khó khăn. Đáng chú ý là sự khác biệt giữa các sinh viên ngữ âm và thính học. Sinh viên ngữ âm không chỉ thể hiện sự đánh giá cao hơn đối với tài liệu hình ảnh mà còn có những mong đợi lớn hơn và cuối cùng cũng sử dụng tài liệu này nhiều hơn. Thảo luận và kết luận: Kết quả này có lẽ một phần có thể giải thích bởi những sở thích khác nhau. Sinh viên ngữ âm có thể đánh giá giá trị của tài liệu tốt hơn vì họ đã nhìn thấy một phần các hình ảnh trong quá trình thực hành. Với những hạn chế của e-learning (không có khả năng phản hồi ngay lập tức, không có tiếp xúc xã hội), chúng tôi tin rằng tài liệu hình ảnh bổ sung trên sách giáo trình có thể mang lại giá trị gia tăng. Để tăng cường giá trị này, đã quyết định tạo một cuốn sách thực hành điện tử mở rộng.
#logopedie #audiologie #spraakstoornissen #taalstoornissen #zelfstudiepakket
ĐÁNH GIÁ SỰ TUÂN THỦ VỆ SINH GIỌNG NÓI CỦA NGƯỜI BỆNH RỐI LOẠN GIỌNG ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG TRUNG ƯƠNG NĂM 2023
Tạp chí Tai Mũi Họng Việt Nam - Tập 69 Số 65 - Trang 48-54 - 2024
Đặt vấn đề: Bệnh lý lành tính ở thanh quản đang gia tăng, gây rối loạn giọng và ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống, đặc biệt ở những người sử dụng giọng nói hàng ngày. Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức độ tuân thủ chương trình vệ sinh giọng nói (VSGN) của người bệnh và các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ này. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 60 người bệnh từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2023. Kết quả: Độ tuổi phổ biến của người bệnh là 41-60 tuổi (55%), với tỷ lệ nữ gấp đôi nam. Phần lớn người bệnh đến từ nông thôn (53,3%) và có trình độ học vấn từ tốt nghiệp phổ thông trở lên (83,3%). Những người thường xuyên sử dụng giọng nói chiếm tỷ lệ cao (71,7%). Mức độ tuân thủ VSGN chủ yếu ở mức tốt (51,7%) và khá (43,3%), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi, giới tính, địa dư, học vấn và nghề nghiệp. Kết luận: Đa số người bệnh tuân thủ VSGN ở mức khá trở lên, nhấn mạnh tầm quan trọng của các biện pháp can thiệp để cải thiện sự tuân thủ và nâng cao chất lượng cuộc sống.
#Vệ sinh giọng nói #người bệnh #khoa Tai Mũi Họng
Đánh giá kết qủa điều trị rối loạn giọng nói của nữ giáo viên TH Huyện Gia Lâm - Tp Hà Nội
Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả quả của các biện pháp can thiệp trong điều trị rối loạn giọng nói ở giáo viên tiểu học. Nghiên cứu can thiệp được thực hiện trên 50 giáo viên tại các trường TH thuộc Huyện Gia Lâm TP Hà Nội. Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, mở, không có nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các can thiệp làm giảm rõ rệt các đặc điểm sau điều trị so với trước điều trị như các triệu chứng cơ năng giảm giọng khản từ 90% xuống còn 48%, giảm hụt hơi khi nói từ 86% xuống còn 32%, giảm rối loạn giọng nói cơ năng từ 76% xuống còn 36%, các thông số chất thanh sau can thiệp đều cải thiện rõ rệt so với trước điều trị. Các tổn thương tại thanh quản cũng được cải thiện rõ rệt khi so sánh trước và sau điều trị. Do đó, luyện giọng và vệ sinh giọng nói giúp giáo viên khôi phục kiểu tạo thanh bình thường và ý thức hơn với giọng nói.
#rối loạn giọng nói #trị liệu giọng nói #nữ giáo viên TH.
Cải thiện giọng nói ở bệnh nhân liệt thanh quản một bên khi phát âm to: tác động lý thuyết Dịch bởi AI
Archives of oto-rhino-laryngology - Tập 264 - Trang 1201-1205 - 2007
Giọng nói của bệnh nhân bị liệt thanh quản một bên (ULP) thể hiện hành vi phi tuyến tính với những bước nhảy octave đột ngột, phân nhánh và hỗn loạn. Hành vi như vậy có thể là do số bậc tự do gia tăng trong hệ thống glottal. Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng cường độ giọng nói (với áp suất dưới thanh quản gia tăng) có thể cải thiện sự ổn định của tín hiệu giọng nói với ít bậc tự do hơn trong hệ thống dao động, và do đó giảm đi những phi tuyến tính. Một nghiên cứu tiên tiến trên 32 giọng nói liên tiếp của bệnh nhân ULP và rối loạn giọng nói nghiêm trọng đã được tiến hành. Jitter và số mũ Lyapunov từ tín hiệu giọng nói đã được so sánh ở mức nói thoải mái và to với kiểm định Wilcoxon. Trong số 32 bệnh nhân, jitter giảm đáng kể từ 5 (trung vị) ở giọng nói bình thường xuống 1.2 ở giọng nói to (P < 10−3), số mũ Lyapunov giảm từ 1,495 bit/s (trung vị) xuống 708 bit/s (P < 10−4). Hai bệnh nhân có kết quả nghịch lý liên quan đến jitter (cao hơn ở giọng nói to) và 2 trường hợp liên quan đến số mũ Lyapunov. Từ 23 trường hợp cải thiện giọng nói, 15 trường hợp cho thấy sự cải thiện rõ ràng của phân tích âm học ủng hộ giả thuyết của chúng tôi (65%). Các hiện tượng phi tuyến tính được phát hiện trong tín hiệu giọng nói của ULP với rối loạn giọng nói nghiêm trọng có thể giảm đi trong giọng nói to.
#liệt thanh quản một bên #rối loạn giọng nói #cường độ giọng nói #jitter #số mũ Lyapunov
RỐI LOẠN GIỌNG NÓI CỦA BỆNH NHÂN PARKINSON Ở VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG BẰNG THANG ĐIỂM VOICE HANDICAP INDEX
TÓM TẮT:  Bệnh Parkinson biểu hiện nhiều triệu chứng vận động cũng như ngoài vận động, trong đó vấn đề về giọng nói xảy ra phổ biến và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Mục tiêu: Đánh giá rối loạn giọng nói của bệnh nhân Parkinson ở viện Lão Khoa trung ương và một số yếu tố liên quan bằng thang điểm VHI. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tình trạng RLGN bằng thang điểm VHI trên 55 bệnh nhân Parkinson từ tháng 1 năm 2022 đến tháng 5 năm 2022. Kết quả: Tỉ lệ rối loạn giọng nói ở bệnh nhân parkinson là 91%, trong đó các biểu hiện nhiều nhất là: Giảm độ to (88%), giọng đều đều (80%), hụt hơi khi nói (76%), giảm tốc độ nói (64%). Đánh giá mức độ nặng theo thang điểm VHI: nhẹ 40%, trung bình 54%, nặng 6%. Có mối tương quan vừa phải giữa điểm VHI với thời gian bị bệnh (r=0,328), khả năng vận động UPDRS III (r=0.576), chất lượng cuộc sống PDQ39 (r=0.493), bệnh nhân ở giai đoạn càng muộn thì điểm số VHI càng cao. Kết luận: Rối loạn giọng nói là một tình trạng phổ biến xảy ra ở bệnh nhân parkinson, gây khó khăn trong giao tiếp xã hội, lĩnh vực này cần được quan tâm nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh.
#parkinson #Rối loạn giọng nói #VHI
Tổng số: 7   
  • 1